Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

Mr. Lê Văn Hiếu

Tháng 7 vừa rồi tôi qua Adelaide Úc có chút công chuyện, sẵn dịp đi thăm thú và tìm hiểu thành phố xinh đẹp này. Adelaide là thủ phủ chính của bang Nam Úc (South Australia) nổi tiếng là một thành phố có nhiều công viên và trường đại học nổi danh như Đại học Adelaide, Đại học Flinders, Đại học South Australia. Có khá nhiều sắc dân (Anh, Ý, Hy Lạp, Đức, Trung Quốc, Việt Nam...) sinh sống tại đây, điều đặc biệt là tuy chiếm một số ít nhưng thống đốc bang lại là một người Việt Nam, ông Lê Văn Hiếu.


Ông Lê Văn Hiếu vượt biên sang Úc năm 1977, khi mới 23 tuổi, chỉ với 2 bàn tay trắng và "một valy vô hình đầy ắp những ước mơ".

Tại Úc, ông đã phải làm đủ mọi nghề lao động chân tay để kiếm sống và để có tiền theo học tại Đại học. Ông tốt nghiệp cử nhân về kinh tế và kế toán cũng như bằng cao học về Quản trị Hành chính từ Đại học Adelaide. Sau đó ông được mời làm giảng viên các học viện và trường đại học tại Australia.

Năm 1995, ông đã trở thành thành viên Ủy ban Các vấn đề Đa văn hóa và sắc tộc của tiểu bang Nam Australia(SAMEAC). Ông là người gốc châu Á đầu tiên nắm giữ chức vụ chủ tịch Ủy ban Đa Văn hóa và Sắc tộc Sự vụ Nam Australia (SAMEAC).

Tháng 8/2007, ông Lê Văn Hiếu, người châu Á đầu tiên, và đặc biệt là người Việt đầu tiên đã được Nữ hoàng Anh Elizabeth II bổ nhiệm vào chức vụ Phó Toàn quyền Tiểu bang Nam Australia.

Ngày 16/12/2008, ông được nhận bằng tiến sĩ danh dự do Đại học Adelaide trao tặng vì những đóng góp của ông cho các dịch vụ xã hội và cũng là người Việt đầu tiên được một trường đại học cấp bằng tiến sĩ danh dự.

Ngày 26/6/2014, Thủ hiến Tiểu bang Nam Australia, Jay Weatherill công bố tin bổ nhiệm ông Hiếu vào chức vụ Toàn quyền tiểu bang. Ngài Jay Weatherill nói "Ông Lê Văn Hiếu là biểu tượng cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trong xã hội đa văn hóa của chúng ta".

Với cộng đồng người Việt tại đây ông là người giản dị và hòa nhã.

Nhưng thú vị nhất ông là cựu sinh viên trường Đại học Đà Lạt khóa 10 khoa Chính Trị Kinh Doanh (trước 1975).

Xem thêm:
http://www.giadinhonline.vn/nguoi-viet-dau-tien-giu-chuc-vu-cao-nhat-o-nuoc-ngoai-d23842.html

http://www.banthedao.net/thongbaotintuc/thongdocnamuc/thongdocnamuc.html

HL

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

Vị thế khoa học của Việt Nam

Cách đây khoảng 10 năm (giữa năm 1998), tập san khoa học số 1 trên thế giới, Science, có một loạt bài điểm qua tình hình khoa học ở các nước Á châu và đặc biệt là Đông Nam Á. Trong loạt bài này, Science không có đến một chữ nào nói về khoa học ở Việt Nam. Thậm chí, hai chữ “Việt Nam” cũng không được nhắc đến, làm như Việt Nam không có mặt trong bản đồ khoa học Á châu! Có lẽ do chút tự ái dân tộc, lúc đó tôi có viết một lá thư ngắn (Letter to the Editor) để nhắc nhở Science rằng nước Việt Nam vẫn tồn tại, vẫn có người làm nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, và Việt Nam cũng có cống hiến cho khoa học thế giới. Ban biên tập công bố lá thư đó, nhưng trước khi công bố họ có viết cho tôi một lá thư lịch sự xin lỗi rằng sở dĩ họ không nhắc đến khoa học nước ta vì họ không tìm thấy bao nhiêu bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tập san khoa học quốc tế.

Trong vòng 10 năm qua, kinh tế nước ta phát triển thuộc vào hàng nhất nhì trong vùng, và một bộ phận lớn dân số đã thoát cảnh nghèo đói. Thành tựu xóa đói giảm nghèo ở nước ta được quốc tế ghi nhận và ca ngợi. Các chuyên gia kinh tế xem công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta như là một tấm gương sáng, một bài học cho các nước đang phát triển noi theo.

Nhưng trong 10 năm qua, khoa học Việt Nam có phát triển tương đồng với tốc độ phát triển kinh tế hay không? Tôi e rằng câu trả lời là: “không”. Một cách đánh giá khách quan tình hình khoa học là qua số lượng bài báo khoa học công bố trên các tập san khoa học quốc tế. Năm 1998, các nhà khoa học Việt Nam công bố được 239 bài báo khoa học; đến năm 2000 con số này tăng lên hàng 300; khoảng 3 năm sau con số tăng lên hàng 500, và hiện nay là khoảng 600 bài.

Những con số tăng trưởng về công trình nghiên cứu khoa học trên có thể làm cho chúng ta lạc quan. Nhưng những con số đó có thể đánh lừa chúng ta, nếu chúng ta không đặt chúng vào bối cảnh phát triển trong vùng, chẳng hạn như so sánh với Singapore và Thái Lan. Con số bài báo khoa học từ Việt Nam không bằng 1 phần 10 bài báo khoa học từ Singapore, và tỉ số này không thay đổi trong vòng 10 năm qua (Bảng 1).

Khi so sánh với Thái Lan, chúng ta mới thấy khoa học của ta có xu hướng đi lùi. Năm 1996 số lượng bài báo khoa học từ Việt Nam bằng khoảng 28% số bài báo từ Thái Lan; 10 năm sau, tỉ lệ này giảm xuống còn 20%! Nói cách khác, tuy số bài báo khoa học từ nước ta có phần gia tăng trong 10 năm qua, nhưng tỉ lệ tăng trưởng còn quá thấp, và hệ quả là nước ta càng ngày càng trượt dài so với các nước đang phát triển trong vùng.

Thật ra, theo phân tích của chúng tôi, chỉ có 20% (hay 1 phần 5) các công trình nghiên cứu khoa học từ Việt Nam là do nội lực, tức hoàn toàn thực hiện bởi các nhà khoa học trong nước mà không có sự giúp đỡ của đồng nghiệp nước ngoài. Phần 80% còn lại là do hợp tác với với các nhà khoa học nước ngoài. Ở Thái Lan, tỉ lệ công trình nội lực khoảng 30%, và ở Singapore tỉ lệ này dao động từ 30 đến 45% trong vòng 10 năm qua.


Điều đáng quan tâm hơn là tỉ lệ công trình nghiên cứu khoa học nội lực ở nước ta không tăng mà còn có xu hướng giảm. Điều này có nghĩa là hiện nay các nhà khoa học nước ta chỉ công bố được khoảng 120 bài báo khoa học mỗi năm!

Cần nhắc lại rằng nước ta có khoảng 14.000 tiến sĩ và 20.000 thạc sĩ. Theo một thống kê có lẽ chưa đầy đủ, nước ta có khoảng 6.000 người mang chức danh giáo sư và phó giáo sư. Đây là những người có khả năng nghiên cứu khoa học và công bố báo cáo khoa học. Nhưng qua con số bài báo khoa học vừa trình bày, chúng ta có thể nói rằng trung bình mỗi giáo sư và phó giáo sư nước ta công bố 0,58 bài báo trong vòng 10 năm qua! Nói cách khác, cứ hai giáo sư mới có 1 công bố quốc tế -- trong vòng 10 năm. Cũng cần nói thêm rằng ở các nước trong vùng như Thái Lan và Singapore, các đại học đặt ra tiêu chuẩn hay khuyến khích mỗi giáo sư cần công bố ít nhất 1 bài báo khoa học trong vòng 2 năm.

So sánh như thế chúng ta mới thấy chẳng những sản lượng khoa học nước ta quá thấp (thấp nhất trong vùng Đông Nam Á), mà còn có xu hướng giảm, và quan trọng hơn, năng suất khoa học của các giáo sư và nhà khoa học ở nước ta còn quá thấp.

Tại sao năng suất khoa học của nước ta còn quá thấp ? Đã có nhiều người tìm câu trả lời cho câu hỏi đó, và tôi không có ý định lặp lại ở đây, nhưng có lẽ câu hỏi thực tế hơn và cá nhân hơn là : chúng ta phải làm gì ? Nói như Nhà văn Dostoievski là chúng ta tự quyết định vận mệnh của chúng ta ; chẳng có ai tử tế giúp chúng ta mà không có kèm theo điều kiện. Không nên chỉ tay đổ thừa cho nguyên nhân khách quan và chủ quan (tuy cũng có cơ sở), nhưng mỗi cá nhân làm khoa học -- có thể là nghiên cứu sinh, hay các nhà khoa học -- nên tự hỏi mình phải làm gì để nâng cao vị thế của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Tôi [chủ quan] nghĩ rằng câu trả lời là nên đặt tiêu chuẩn công bố quốc tế thành một mục tiêu cá nhân để phấn đấu.

Ở nước ta không thiếu những chất liệu và những nghiên cứu khoa học có ý nghĩa và có tiềm năng đóng góp vào kho tàng tri thức khoa học quốc tế. Nhưng có lẽ vì "văn hóa" công bố quốc tế chưa được nhận thức một cách đúng mức, hay chưa được phát triển thành một chuẩn mực hoạt động khoa học, nên cho đến nay, hệ quả là chúng ta thua kém các nước trong vùng. Vậy nên chăng cần mỗi chúng ta phải tự tạo cho mình một văn hóa khoa học. Đó là văn hóa đặt câu hỏi và phát hiện vấn đề ; nói có sách, mách có chứng ; tôn trọng sự thật khách quan ; làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan ; hệ thống hóa những gì mình biết ; và trách nhiệm xã hội (xem bài "Văn hóa khoa học").

Người Việt chúng ta thường tự hào là một dân tộc thông minh, trí lực không thua kém ai, thậm chí còn trội hơn vài nhóm khác. Điều đó có thể không sai. Nhưng nếu số lượng bài báo khoa học là một đo lường [có thể không hoàn hảo] về tri thức của một quốc gia, thì các con số mang tính phản biện vừa trình bày trên làm cho chúng ta phải và nên khiêm tốn hơn. Tôi vẫn nghĩ thay vì nói chúng ta thông minh và tài giỏi, tại sao không nhìn nhận rằng chúng ta còn dốt và thua kém người khác. Tại sao chúng ta không nhìn nhận rằng nước ta vẫn còn rất nghèo, nền khoa học của chúng ta còn rất thô sơ, và trình độ học vấn của cả nước, tính trung bình, cũng không cao hơn ai.

Nếu nhìn nhận như thế thì chúng ta -- các bạn và tôi -- biết mình cần phải làm gì : học, học nữa, và học mãi. Học. Đó là con đường duy nhất để chúng ta nâng cao vị thế khoa học của nước nhà, để vài năm nữa khi một tập san nào đó làm tổng kết về tình hình khoa học ở Á châu, hai chữ Việt Nam sẽ xuất hiện trên bản đồ khoa học thế giới.

Nguồn: http://tuanvannguyen.blogspot.com/2008/02/v-th-khoa-hc-ca-vit-nam.html

HL


Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

Quán Cofe Cao Nguyên

Những năm 1988, 1989 con đường từ ngã tư Đại học lên khu KTX DHDL rất vắng vẻ, nhà cửa thưa thớt và hầu như không có quán xá vì vậy nhu cầu giải trí của hầu hết sinh viên vào cuối tuần là lang thang khu Hòa Bình: hoặc ngắm phố xá, hoặc nhâm nhi cofe, hoặc chỉ để cho hết ngày. Và cứ thành một thông lệ, mỗi cuối chiếu thứ 7 sau khi cơm nước xong ở khu nhà ăn trong trường chúng tôi không về KTX mà lại đi thẳng ra quán cofe Cao Nguyên cuối dốc Duy Tân ở khu Hòa Bình. Quán khá đông đặc biệt rất nhiều sinh viên: K9, K10, K11 và cả tân sinh K12. Có vẻ đây là địa chỉ quen thuộc của nhiều thế hệ sinh viên DHDL, có thể là ở đây giá rẻ và vị trí thóang hơn những chỗ khác. Nếu ngồi ở đây một mình bạn cũng không có cảm giác cô đơn lạc lõng, vì bạn có thể phóng tầm nhìn xuống con đường Phan Đình Phùng nhiều xe cộ và người qua lại bên dưới. Quán bố trí bàn ghế cũng khá ngộ, hai dãy ghế nệm dài dọc theo hai bên từơng mà không có sự ngăn cách giữa bàn này với bàn khác, vì vậy khi đông người nếu nhìn vào khó mà biết ai là bạn của ai.

Có một lần tôi đang ngồi nhâm nhi cofe thì một anh chàng dân địa phương ngồi bên cạnh vỗ vào vai tôi hỏi "có phải anh là sinh viên không?", tôi khá bất ngờ nên hỏi lại "ủa, sao anh biết?", anh chàng không nói mà chỉ tay vào túi quần tôi, thì ra cái muỗng cơm trong túi quần lòi ra lúc nào không hay :-) Đó quả thật là một kỷ niệm không quên thời sinh viên.

Một vài năm sau, do thấy được nhu cầu của sinh viên nên một vài quán cofe mọc lên bên dưới dốc đá. Nó thật thuận tiện, không cần phải đi xa và cô hàng cofe cũng xinh nữa, đặc biệt những khi không có tiền chúng tôi vẫn... uống ký nợ được. Do đó sinh viên thưa dần việc đi ra phố, chúng tôi cũng vậy, xa dần quán Cao Nguyên rồi quên hẳn lúc nào cũng không hay nữa...

Nhanh quá mới đó mà đã hai mươi mấy năm rồi.

Mong rằng có một ngày quay lại DL, được ngồi trong quán ngày xưa với bạn xưa, biết có còn không.

HL

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Thương xá Tax


Mấy hôm nay báo chí đưa tin vụ Thương Xá Tax sẽ bị dẹp bỏ và được thay thế bằng một công trình khác đồ sộ hơn, thật thấy tiếc cho một kiến trúc mang nhiều dấu ấn của Sài Gòn, nhưng các bạn có biết rằng Thương Xá Tax trước đây là một tài sản của Viện Đại Học Đà Lạt chúng ta (xem thêm ở đây http://www.vietcatholic.net/News/Html/55503.htm). Ngòai ra còn có một số nơi khác như Thư Quán Xuân Thu (có thể là Nhà Sách Xuân Thu trên đường Đồng Khởi Q1 chăng?).


Nhân tiện cũng xin giới thiệu các bạn một số hình ảnh về trường và sinh viên DHDL trước 1975, hy vọng các bạn có thể tìm lại một chút hương xưa :-)

http://ctkdk8dalat.blogspot.com/search/label/Hi%CC%80nh%20th%C3%A2%CC%A3p%20ni%C3%AAn%2070

HL

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

Hôm nay ngày cưới em

Hôm nay ngày cưới em
Nào men nồng nào hoa thơm
nào môi hồng nào giá phấn
khăn áo muôn sắc đua chen
mắt biếc ngời ánh đêm
làn tóc nụ cười ngát hương
Từng bước dập dìu bước êm
Chỉ mình lòng tôi hoang vắng
...

Tiếng nhạc đâu đó văng vẳng bất chợt như kéo tôi về với những kỷ niệm của hai mươi mấy năm về trước trong một căn phòng KTX DHDL, mà thường cứ mỗi chiều hay tối mỗi khi bạn ôm đàn là bạn lại ca bài này. Bạn hát không hay nhưng có thần. Tôi cũng không hiểu sao bạn rất thích bài này, có thể bạn có tâm sự buồn hay đơn giản bạn thích. Chúng tôi thường đi uống cofe, đôi khi cả hàng giờ trong quán Hạnh dưới chân dốc KTX, nhưng chưa bao giờ bạn kể và tôi cũng chẳng bao giờ hỏi tại sao.

Thật thú vị biết bao nếu có một ngày gặp lại và được nghe bạn ca lại bài này để cùng nhớ lại một thời sinh viên xa vắng.

Gởi đến bạn tôi: Trần Thanh Tùng

http://www.yeunhacvang.com/nhac/Ngay_cuoi_em_Thien_Trang,_Tuan_Vu-1555

HL

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

4 cái muỗng

Tôi không nhớ chính xác đó có phải là lần đầu tiên chúng tôi đi chợ trong cuộc đời sinh viên hay không, nhưng nó thực sự là một kỷ niệm đẹp.

Có lẽ đó là một sáng chủ nhật của nãm 1988. Hôm đó 4 (hình như vậy) đứa chúng tôi: Thảo, Tuấn Anh (TA), Khoa và tôi đi ra chợ ĐàLạt để... mua muỗng. Và có lẽ cả 4 thằng con trai lần đầu tiên bước chân xa nhà cho nên mọi thứ đều rất bỡ ngỡ và lúng túng, thật khó để diễn đạt tâm trạng của chúng tôi lúc đó. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn quán của một bà cụ cho... đỡ mắc cỡ, nhưng mà cũng không có thằng nào dám vào, cuối cùng tôi đánh bạo vào hỏi:

- Bà ơi cái muỗng này bao nhiêu một cái?

Bà cụ chủ quán nhìn tôi rồi nói:

- Cháu mua bao nhiêu cái?

- Dạ 4 cái - tôi trả lời.

Bà cụ nhìn chúng tôi và nói:

- Các cháu có phải là sinh viên không?

Tôi thật sự ngạc nhiên, còn TA trả lời "dạ phải" nhỏ xíu. Rồi bà đưa 4 cái muỗng cho chúng tôi và nói "bà cũng có đứa cháu đang là sinh viên ở Sài Gòn nên bà biết, bà tặng cho các cháu đó". Ôi chúng tôi lại ngạc nhiên lần nữa, một bà cụ không quen biết nhưng lại hiểu được tâm trạng và quá tốt với chúng tôi - một lũ sinh viên non chẹt.

Đã 26 năm qua rồi, không biết TA, Thảo, Khoa có còn nhớ không. Nhưng với tôi đó là 1 kỷ niệm đẹp, thực sự đẹp về người DaLat xưa: hiền lành và tốt bụng.

HL

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

MÀN CUỐI
MĐT làm đổ rượu nè


Phê quá


Thủy ơi, hôm nào bố trí ra ăn nem bướng nữa nghen
có người chiêu đã món bò bung nữa nè
trời mưa ai chạy mặc ai
riêng ta thì cứ hai tô thế này